các bài học đắt giá trên quả đât
các điều tiết trên thị trường chứng khoán truyền thống chỉ tập trung vào vấn đề báo cáo thông tin và làm cho giảm các mâu thuẫn mục tiêu, lừa gạt và các hành vi thao túng thị trường, thay bởi vì điều tiết cẩn trọng như trong lĩnh vực ngân hàng, nhằm mục đích chính là bảo vệ nhà đầu tư và tăng mạnh tính hiệu quả của thị trường. Tuy nhiên, với 2 biến cố lớn làm cho thay đổi quan điểm của các nhà kinh tế về vấn đề này.
thứ nhất là dù điều tiết ngân hàng chặt chẽ đến mức nào thì khủng hoảng tài chính vẫn xảy ra. ấy là thưởng thức nhưng những nước đã chạm mặt nên từ cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997.
thứ nhị là cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007 nhưng nguyên vì chính bắt nguồn từ sự sản xuất của những công trình tài chính mới.
thứ 1, tài sản của các nhà hàng chứng khoán hay các ngân hàng đầu tư được cho là ko có liên quan đa dạng mang những các bạn của họ. các tin tức xấu liên quan những tài sản của công ty chứng khoán hầu như không được những người mua của họ niềm nở.
đồ vật nhị, do các bổn phận nợ của doanh nghiệp chứng khoán chẳng phải huy động từ tiền gửi như hệ thống ngân hàng nên tình trạng nợ nần của họ được cho là miễn nhiễm trước những cuộc rút tiền gửi hàng loạt (giống như ngân hàng), dẫn đến nguy cơ bất ổn toàn hệ thống tài chính.
đồ vật ba, những doanh nghiệp chứng khoán nhìn phổ biến nắm giữ những tài sản với tính thanh khoản cao và được điều chỉnh hàng ngày theo thị trường nên bảng cân đối kế toán của họ hơi minh bạch. Điều này đã làm giảm đáng nói những vấn đề liên quan tới bất cân xứng thông tin, vấn đề mà những chính phủ luôn quan ngại trong lĩnh vực ngân hàng.
trang bị tư, mỗi khi các nhà hàng chứng khoán rơi vào 1 cuộc khủng hoảng niềm tin hay không thể huy động thêm được những nguồn tài trợ bên không tính cho các hoạt động của mình thì họ cũng đơn giản bán đi những chứng khoán để bù đắp những thiếu hụt nguồn vốn.
vật dụng năm, các siêu thị chứng khoán không tham gia phổ biến vào hệ thống thanh toán tiền tệ phức hợp như những ngân hàng, làm cho sự thất bại của một siêu thị chứng khoán cũng không gây ra hiệu ứng dây chuyền như trong hệ thống ngân hàng.
Khoảng 30 năm trước, những nhà kinh tế đã tậu lý lẽ kiểm tra những nhái thuyết trên thông qua trường hợp phá sản của Drexel Burnham Lambert Group (DBLG). DBLG là một ngân hàng đầu tư sinh lợi cao nhất ở Mỹ vào giữa thập niên 1980, nhưng sau ấy đã bị phá sản vào 1989 vì 1 chuỗi sự kiện liên quan đến các giao dịch ko rõ ràng, khiến cho họ bị Chính phủ Mỹ phạt tiền. cùng lúc đấy là sự đi xuống của TTCK, làm cho DBLG vướng phải các vấn đề kinh điển về thanh khoản dẫn đến nên phá sản. Sự kiện này đã làm cho rung lắc mạnh toàn TTCK Mỹ lúc bấy giờ.
Đây được xem là bài test đầu tiên về những nhận thức sai trái rằng sẽ ko mang không may hệ thống trên TTCK. phổ biến sự kiện sau đấy, nhất là cuộc khủng hoảng của Long-Term Capital Management Fund (LTCM) và khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007 càng củng cố cho nhận định này.
Cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn 2007 ở Mỹ đã lây lan toàn bộ hệ thống tài chính, ngân hàng, TTCK và nền kinh tế nước này đến tận hôm nay. Tính dai dẳng của những cuộc khủng hoảng ngân hàng và TTCK còn liên quan tới chế độ xử lý phá sản đối có những định chế tài chính.
Trong một vài trường hợp, cần thiết sự cung cấp của chính phủ bằng phương pháp bơm tiền vào hệ thống, nhưng mà nhìn tầm thường, nếu chính phủ càng ít can thiệp vào hệ thống tài chính thì tâm lý ỷ lại của những thành viên trong hệ thống ngân hàng và TTCK càng giảm và hệ quả của những bất ổn trên thị trường tài chính cũng không kéo dài.
… và vấn đề đặt ra với Việt Nam
Từ những phân tích trên, hòa hợp với các đặc trưng kinh tế Việt Nam, kế hoạch tái cấu trúc thị trường tài chính và nâng cấp TTCK sắp tới yêu cầu xem xét những nội dung sau:
thứ 1, những lao lý điều tiết và tăng trưởng TTCK ko thể tách rời những cải lý lẽ trong khu vực ngân hàng. Mối quan hệ giữa hệ thống ngân hàng và TTCK cũng như khuôn khổ điều tiết chung giữa hai thị trường này để tránh không may hệ thống là 1 trang bị học phí không phải trả tiền mà Việt Nam nên rút kinh nghiệm trong quá trình tái cấu trúc các ngân hàng và TTCK.
vũ trang nhì, kinh tế Việt Nam chỉ với thể phát triển bền vững và thị trường tài chính chỉ mang thể vững mạnh định hình nếu như các hoạt động của nền kinh tế thực dựa trên những nguồn vốn trung và dài hạn được huy động trên TTCK, thay do tập trung tổng thể vào nguồn vốn ngắn hạn của hệ thống ngân hàng như hiện tại. Tuy nhiên, như đã đề cập ở trên, việc chuyển sang các nguồn tài trợ dài hạn với tính thị trường trên TTCK không mang nghĩa không chạm mặt phải rắc rối mới phát sinh là rủi ro hệ thống.
đồ vật ba, cần thiết những khuôn khổ mang tính cần và hành chính cực kỳ mạnh khỏe để chuyển kênh dẫn vốn từ các ngân hàng thương mại chảy sang TTCK. Chẳng hạn, trước mắt đối với một số ngân hàng thương mại yếu kém, quan trọng những khống chế khác lạ về tránh huy động tiền gửi và cho vay ở một con số thật thấp nào ấy, những ngân hàng chỉ hướng đến những dịch vụ cho vay luân chuyển là chính. Sau đó sẽ dần dần áp đặt các pháp luật này chung cho toàn hệ thống ngân hàng.
thiết bị bốn, từ những vụ phá sản ngân hàng ở Mỹ và đa dạng nước cho thấy, cách thức thấp nhất để chặn đứng những rủi ro hệ thống ko hoàn toàn nằm ở vấn đề điều tiết, mà ở các vấn đề liên quan đến cách thức xử lý kiên quyết những ngân hàng yếu kém.
một TTCK không thể phát triển lành mạnh khi mà những doanh nghiệp "xác sống" và những ngân hàng 0 đồng vẫn tiếp tục xây dựng, sống sót và hòa hợp lẫn nhau và rồi tác động ngược trở lại TTCK.
làm sao các nhà đầu tứ tin yêu vào chất lượng các cổ phiếu trên thị trường sàn chứng khoán khi nhưng họ không thể phân biệt được đâu là cổ phiếu của các siêu thị lành mạnh và doanh nghiệp "xác sống"?
vũ trang năm, việc phát hành các khí cụ và sản phẩm mới trên TTCK là cực kỳ nhu yếu. Lộ trình triển khai những công cụ phái sinh trên TTCK Việt Nam cần nên được thực hiện tuần tự và thận trọng mang sự giám sát nghiêm ngặt của những cơ quan quản lý thị trường. 1 câu hỏi đặt ra cho những nhà quản lý là 1 lúc hệ thống ngân hàng ngày càng tăng trưởng, hội nhập và cộng sở hữu đấy là sự lớn mạnh của TTCK ngày càng thông minh và phổ biến, khiến cho thế nào để thiết kế một quy tắc để với thể nắm bắt và điều tiết các hoạt động chứng khoán, bảo hiểm và ngân hàng thành một thể thống nhất để giảm thiểu những không may hệ thống? Cơ quan nào (Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước hay 1 tổ chức độc lập thuộc chính phủ) sẽ thực hiện việc này một cách sở hữu hiệu quả nhất?
vũ trang sáu, cần phải có các nghiên cứu chuyên sâu về điều tiết giữa hai thị trường này yêu mến mang điều kiện đặc biệt của Việt Nam. Tuy thị trường tài chính Việt Nam vẫn còn chậm chạp tăng trưởng, mà ẩn đựng sâu trong ấy rộng rãi tinh vi không thua kém gì những giao dịch phái sinh thường bị chỉ trích là nguyên nhân của những cuộc khủng hoảng. Chẳng hạn như tình trạng với chéo, "tay không bắt giặt" và minh bạch thông tin quá kém.
nếu nhận dạng ko đúng mực các tài sản ảo ở khu vực này, các giải pháp tái cấu trúc thị trường tài chính chẳng những không làm hệ thống ngân hàng tăng trưởng lành mạnh nhưng TTCK cũng sẽ khó lòng sản xuất bền vững. Chính phủ buộc phải tiếp cận và xử lý vấn đề này thông qua loại gọi là kiến trúc những quy tắc điều tiết.
Điều này hàm ý tới một kiến trúc (điều tiết) tinh tế cho phép vững mạnh một định chế đặc thù mang khả năng am hiểu hoàn toản lối chơi chứng khoán các hoạt động kinh tế – tiền tệ và mối quan hệ mang chéo tinh vi giữa các lĩnh vực và những ngành để mang thể phát hiện, giám sát và có quyền lực thực sự áp đặt những biện pháp cần thiết ngay lúc những mầm mống ban sơ của không may vừa phát sinh.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét